Việt Nam & Lúa Nước

Việt Nam – Trung Tâm Nông Nghiệp Lúa Nước
& Công Nghiệp Đá Xưa Nhất Thế Giới

Nghiên Cứu Văn Hoá Tiền Sử Việt Nam

Trong Việt Nam Sử Lược , Sử Gia Trần Trọng Kim đã viết : Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao Chỉ và Cửu Chân ( 2 quận lớn trong 9 quận của Việt Nam cổ ) , dạy dân điều lễ nghĩa , cưới vợ hỏi chồng , dùng cày bừa mà cày cấy ruộng , vì trước đó dân Giao Chỉ chỉ biết săn bắn và chài lưới … Sử Gia Đào Duy Anh cũng viết Nó ( Tàu ) làm Thầy khai hoá cho ta và các dân tộc Á Đông khác .

Sách vở của các vị sử gia trên đã dạy dân học suốt bao thế kỷ . Người Việt Nam cứ cong lưng theo thế mà học về lịch sử nước nhà . Có lẻ 2 ông sử gia trên đã dựa một cách tiêu cực vào lịch sử Tàu mà không cố tình suy luận và phán đoán về sử liệu nước nhà . Một gương sáng mà chúng ta cần lưu ý : Triều Tiên và Tàu phản kháng 35 điểm viết sai trong lịch sử giáo khoa Nhật Bản hiện nay .

Mặc dầu rằng 2 ông sử gia nói trên đã có công viết nên lịch sử nước nhà để dạy dân . Nhưng không hiểu vì sao 2 ông không hề quan tâm nghiên cứu những gì quí báu ghi chép trong những bộ sử nước ta vào thế kỷ 13 là bộ Đại Việt Sử Ký do 2 sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần ; và bộ Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê , cùng nghiên cứu các sách vở khác của Tàu .

Trước thế kỷ13 là thời kỳ độc lập lâu dài , chắc hẳn chúng ta đã có nhiều tài liệu lịch sử cũng như luật pháp và văn chương . Bằng chứng là Mã Viện đã tâu với Vua Quang Vỏ nhà Đông Hán là luật của Trưng Vương có 10 điều khác với luật Tàu cần huỷ bỏ để trói buộc họ ( xem hình chụp lời của Mã Viện sau ) .

Mã Viện phá luật nhà Trưng Vương

Sở dĩ ngày nay chúng ta không còn một dấu tích gì về các bộ luật cổ , sử địa cổ , văn chương cổ mà bằng chứng là luật Trưng Vương vì Tàu đã tiêu tiêu huỷ hay cướp đem về Tàu tất cả . Một trường hợp cụ thể khác mà GS Lê Hữu Mục vừa cho biết là Tàu đã cho xuất bản một quyễn sách mà tác giả là Chu Văn An , đây là một trường hợp hi hữu đáng khen vì tuy sách bị cướp nhưng tên tác giả còn được giữ , mặt khác cũng cần xét lại xem không biết người xuất bản có biết rằng Chu Văn An là người Việt không ? Như vậy thì biết bao là tài liệu về lịch sử văn chương … của tổ tiên chúng ta đã bị cướp phá và tiêu huỷ .

Tưởng cũng hữu ích ở đây khi trở lại thời tiền sử Tàu và Việt Nam . Sử Tàu chép , khoảng 2790 năm trước CN , dân du mục Mông Cổ vượt sông Hoàng Hà đánh nhau với Liên Minh Xích Quĩ tại Trác Lộc trên bờ Hoàng Giang , chiếm nước Bách Việt từ Hoàng Hà đến Dương Tử của Đế Lai . Trước đó Đế Lai xưng là Thiên Tử làm Vua phương Bắc , là con Đế Nghi , cháu nội Đế Minh . Đế Minh là cháu 3 đời của Vua Đế Viêm tức Thần Nông . Đế Minh đi ngao du đến núi Ngũ Lĩnh , tỉnh Vân Nam ngày nay , gặp một tiên nữ ( người tài giỏi và xinh đẹp biệt hiệu là tiên nữ ) kết duyên , đẻ ra Lộc Tục . Đế Minh cho Lộc Tục làm Vua phương Nam từ Dương Tử Giang đến tận Việt Thường đặt tên nước là Xích Quĩ , xưng hiệu là Kinh Dương Vương lấy nàng Long Nữ con Động Đình Quân đẻ ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân . Như vậy Lạc Long Quân là con Nữ Rồng và cháu Nội của Nữ Tiên : do đó mà chúng ta được gọi là con Rồng cháu Tiên .

Bản đồ trận Trác Lộc

VN&LuaNuoc03

Lạc Long Quân nối nghiệp Kinh Dương Vương làm Vua phía Nam sông Dương Tử . Đế Lai đem con gái Âu Cơ gả cho Lạc Long Quân . Sau đó Đế Lai cùng em họ là Lạc Long Quân lập liên minh Xích Quĩ đánh nhau với du mục Mông Cổ tại Trác Lộc trên sông Hoàng Hà ( 2800 năm tr CN ) . Mông Cổ thắng trận vượt Hoàng Hà xưng là Hoàng Đế lập nên nước Tàu Hán Tộc . Người Hán rất ghét thủ lảnh Liên Minh Xích Quĩ là Đế Lai hay Lạc Long Quân ( ? ) nên gọi Ngài là Xi Bưu ( xấu xí láo lếu ) . Đế Lai tử trận , Lạc Long Quân có thể đã chết trong trận Trác Lộc , hoặc sống đem tàn quân cùng con cháu tướng tá chạy theo Hoàng Giang ra biển tản mác khắp nơi trên Thái bình Dương . Mông Cổ chiếm bình nguyên Hoàng Hà xưng là Hoàng Đế lập nên Tàu và cũng bắt chước Đế Lai xưng là Thiên Tử . Đa số thị tộc Bách Việt mà Hán Mông Cổ gọi là man di ở lại sống chung rãi rác khắp nơi .

Vợ Lạc Long Quân là nàng Âu Cơ , con gái Đế Lai kéo quân qua sông Dương Tử , trở lại chốn rừng núi phía Nam tức là nước Xích Quĩ , chia các con cai trị sinh ra 18 dòng họ Hùng Vương . Cho tới Bắc Thuộc lần thứ I , biên giới nước ta kéo dài từ Động Đình Hồ trở xuống đến Việt Thường tức Trung Việt ngày nay ( Xem bản đồ nước Xích Quĩ ) .

Bản đồ nước Xích Quĩ

VN&LuaNuoc04

Nếu so sánh giữa 2 sắc dân , Mông Cổ du mục và Bách Việt nông nghiệp sống định cư thì chúng ta dễ hiểu rằng nguồn gốc nông nghiệp của Tàu là do dân Miêu Tộc ( tên người Mông Hán gọi Bách Việt ) . Dân Bách Việt vốn đã có nghề nông từ lâu đời trước khi Mông Cổ đến . Vả lại các vị Thần Nông , Phục Hi , Nữ Oa … là tổ tiên của Bách Việt đã chết lâu đời trước trận Trác Lộc . Vậy nên Hán Tộc gốc Mông Cổ hoàn toàn không liên can gì đến sự nghiệp nhà nông của các Vị nói trên . Và dân Bách Việt cũng đã thạo thành về nông nghiệp lâu đời từ trước khi Mông Cổ đến . Chúng ta thử chứng minh nhận xét hoàn toàn hợp lý trên đây .

Lịch sử Việt Nam đã chứng minh rõ nét rằng Việt Nam có nguồn gốc Bách Việt và luôn tự xưng là Bách Việt , mà là Bách Việt thuộc thành phần chính thống , trung kiên , bất khuất , lãnh đạo . Lúc bị dân du mục Mông Cổ đánh bại tại Trác Lộc , Lạc Long Quân là Vua nước Xích Quĩ bị tử trận hay chạy ra biển nhưng nước Xích Quĩ được bà Âu Cơ giữ gìn nguyên vẹn . Số người Bách Việt phương Bắc ra đi đến nước Xích Quĩ là tầng lớp lãnh đạo Bách Việt . Kẻ ở lại bị coi là dân man di nô lệ , chung sống với dân Mông Cổ mà thành dân Tàu ngày nay .

Nói như thế chỉ để chứng minh rằng nền văn minh nông nghiệp của dân Bách Việt không phải do du mục Mông Cổ khai sáng . Đó là tàng tích Bách Việt hoàn toàn . Nếu phải nói một cách công bằng thì văn minh nông nghiệp Bách Việt là tài sản chung của toàn thể Bách Việt mà Việt Nam là chủ yếu . Tàu có nông nghiệp từ thời tiền sử là nhờ vào dân Miêu Tộc ( tức Bách Việt ở lại chung sống ) . Vậy cả hai dân tộc Tàu gốc « man di » Bách Việt và Việt Nam gốc Bách Việt chính thống đều là dân đã làm nên nền nông nghiệp từ rất nhiều thiên niên kỷ trước khi Mông Cổ đến xâm lăng đất đai .

Người Hán gốc Mông Cổ cai trị Tàu lâu đời , và đô hộ Việt Nam non 1000 năm , nên lòng người man di Tàu gốc Bách Việt cũng như lòng người Việt Nam dần lãng quên gốc gác của mình mà tưởng rằng văn minh nông nghiệp là do Tàu Mông Hán khai hoá ? !

Đối với dân tộc Tàu thời bấy giờ , người Hán có nguồn gốc Mông Cổ là lớp quí tộc , chủ nhân , lớp lãnh đạo quyền uy giàu có . Miêu Tộc tuy đông , làm nghề nông bị liệt vào hàng bần cùng , nô lệ , bị coi là man di .

Trở lại Việt sử , trong 2 bộ sử xưa nhất của Việt Nam là bộ Đại Việt Sữ Ký do 2 sử gia Lê Văn Hưu và Phan Phu Tiên biên soạn dưới thời nhà Trần , và bộ Sử Ký Toàn Thư do Ngô Sĩ Liên biên soạn dưới thời nhà Lê đã ghi : Trước họ Hồng Bàng ( Kinh Dương Vương ) còn nhiều đời Vua nhưng không kể đến … ( đó là các Vua Toại Nhân , Phục HY , Thần Nông , Đế Viêm , Đế Minh … và rằng … từ họ Hồng Bàng ( 2879 tr TC ) dân ta cầy cấy mà ăn , đào giếng mà uống … rằng Vua Kinh Dương Vương nối nghiệp con cháu Thần Nông , lấy con gái Vua Động Đình , to ro đạo vợ chồng , nắm ngay gốc Văn Hoá , lấy đức mà cảm hoá dân … đó chẵng phải là phong tục thái cổ từ Viêm Đế ư ? Có lẻ Trần Trọng Kim và Đào Duy Anh cho là tưỡng tượng nên không tin vào đoạn sử nay .

Trong lúc đó sử gia Trần Trọng Kim viết , họ Hồng Bàng có Vua Kinh Dương Vương ( 2879-258 ) là dòng dỏi Vua Thần Nông có quốc hiệu là Xích Quĩ , có con là Lạc Long Quân nối ngôi ( 2804 năm tr TC ) . Đã gọi là con cháu Vua Thần Nông thì tại sao không rành về nghề nông mà phải đi nhờ dân gốc Mông Cổ dạy ? !

Như thế , rõ ràng 2 sử gia Trần Trọng Kim và Đào duy Anh chỉ biết dựa trên sử của một quốc gia đã xâm lăng nước ta lâu đời và luôn có khuynh hướng chiếm , phá hoại hay xuyên tạc Văn Hoá tiền sử và lịch sử của dân tộc Bách việt . Tuy nhiên nhờ vào di vật của tổ tiên còn để lại trong lòng đất , các học giả Khảo Cổ Học ngoại quốc và Việt Nam đã chứng minh cho chúng ta và thế giới ngày càng thấy rõ sự thật , rằng chính dân Bách Việt nông nghiệp đã ảnh hưởng giáo dục lễ nghĩa , nông nghiệp và công nghiệp cho khắp lục địa Nam Á trước khi Mông Cổ tới nhiều nghìn năm ( sẽ chứng minh rõ sự kiện nầy ) .

Đối với Bách Việt thì rằng khi dân du mục Mông Cổ đánh liên minh Xích Quĩ của Đế Lai Lạc Long Quân mà chiếm bình nguyên sông Hoàng Hà có thể coi đó là Bắc xâm lược lần thứ I ( 2879 năm tr CN ) . Lúc Tần Thuỷ Hoàng chiếm nước Việt Âu Lạc của Thục An Dương Vương là Bắc Thuộc lần thứ II ( 246-206 tr TC ) . Lúc nhà Hán dứt nước Nam Việt của họ Triệu là Bắc Thuộc lần thứ III . Nhà Đông Hán đô hộ nước Lĩnh Nam của Trưng Vương là Bắc Thuộc lần thứ IV . Những tài liệu nầy , kể cả tên nước Xích Quĩ cũng đều được nêu ra trong tài liệu viết sử của các sử gia nói trên , riêng về ranh giới thì lại càng rất đúng .

Tích Quang và Nhâm Diên sang làm thái thú tại Giao Chỉ và Cửu Chân , 2 quận lớn nhất được coi là kinh đô của Việt Nam cổ , dạy dân điều lễ nghĩa , cưới vợ hỏi chồng , dùng cày bừa mà cày cấy ruộng … Qua những tài liệu trên làm sao tin được sự kiện lịch sử nầy ? Chúng ta hãy nghe những câu nói của Đức Khổng Tử sau đây .

Khi một môn đồ xuôi Nam đến đất Việt , xin Đức Khổng Tử chỉ dạy , ngài nói … người Bách Việt miền Nam ( phía Nam Dương Tử Giang ) có lối sống , tiếng nói , luật lệ , phong tục , tập quán , thức ăn uống riêng … Dân Bách Việt chuyên làm ruộng lúa mà ăn chứ không như chúng ta trồng kê và lúa mì . Họ uống nước bằng lá cây hái trong rừng gọi là Trà .

Một lần khác Đức Khổng Tử xác nhận : Những đạo lý ( ngài ) viết ra điều là những điều đã có sẵn trong dân gian ( dân chúng gốc Bách Việt ) . Trong Kinh Thi thường viết : Nếu không lấy đạo lý trong nhân gian thì biết lấy ở đâu ( Bất do cổ huấn , vu hà kỳ huấn : Thiên Tất Mênh : câu 11 ) . Chính những đạo lý đó Mông Cổ hoàn toàn không có vì với Mông Cổ chỉ có đạo lý của sức mạnh . Vì thế Đức Khổng Tử mới lấy đạo lý cổ của dân gian viết ra để dạy cho Vua quan là giòng giỏi Hán Tộc Mông Cổ .

Đức Khổng Tử còn nói rằng : Dân Bách Việt rất thích ca múa , vừa làm việc vừa ca vè , hát đối , nói vận ( vè , thơ , ca dao ) , lấy lá cây mang vào người , trá hình múa hát … Và Đức Khổng tử cho rằng : Xướng ca vô loại , chẵng nên ca múa như dân Nam Man . Nên trong thời gian đô hộ quan Tàu cấm dân ta múa hát trong những ngày lễ lạc . Nhưng hát bội hay hát bộ ( vừa hát vừa làm bộ điệu ) gốc Bách Việt mà Tàu rất thích nên họ phát triển hát bộ . Sau nầy lại truyền qua cho Việt Nam phương thức hát bộ mới , được chế biến thêm . Miền Nam Việt Nam lại cải biến thêm thành Cải Lương , Tàu lại chế biến thành cãi lương Hồ Quãng .

Sách Hậu Hán Thư quyển 14 viết lại Dân Giao Chỉ ( thủ đô của Bách Việt phương Nam ) biết nhiều thủ công nghiệp , luyện đúc đồng và sắt làm trống , cày , mũi tên … Sách Cổ Kim Đồ Thư , Thảo Mộc Điếm của Tàu chép : Mã Viện tâu Vua Tàu , Giao Chỉ ép Mía làm Đường Phèn : Giao Chỉ có thứ cây mía ngọt , đem ép lấy nước rồi làm Đường Phèn … Giao Chỉ làm giấy Mật Hương : giấy Mật Hương làm bằng lá và vỏ cây Mật Hương trồng ở Giao Chỉ , giấy mềm , giai và thơm , ngâm nước không bở không nát .

Dưới thời Nhà Trưng dân Giao Chỉ làm đường phèn và giấy

Vậy mà trong quyển Art De La Chine của ông Jean Buhot Les Editions du Chêne – Paris xuất bản tháng 04/1951 , tác giả đã viết Le papier ayant inventé par la Chine dès la dynastie de Hán probablement , on peut croire qu’ils connaissent depuis la même époque deux procédés : l’estampage et l’impression … Giấy đã được Tàu phát minh ra từ thời nhà Hán , chắc như vậy , và người ta có thể tin rằng cũng vào thời ấy người Tàu đã biết 2 kỹ thuật : rập khuôn bằng tay và in ấn … Xem như vậy thì thấy những sự hiểu biết của người Âu Châu về Tàu và Việt Nam lệch lạc và bất công biết bao nhiêu .

Các sách cổ khác của Tàu như Giao Châu Ký , Tam Đô Phủ , Ngô Lục Địa Lý Chí , Nam Phương Thảo Mộc Trạng vv . đều chép đại lượt rằng : Dân Lạc Việt trồng lúa mà ăn , dùng lá trà mà uống … Họ biết uống nước bằng lổ mủi … Nuôi tằm mà dệt vải … Dùng đất sét đào sâu trong đất , thái mỏng phơi khô làm thức ăn quí , dùng làm quà quí để đi hỏi vợ … Dùng đá màu làm men gốm … Dùng mu rùa mà bói việc tương lai … Họ dùng một khúc tre dài chừng 1 thước hơn , một dầu có trụ cao làm tay cầm , có giây buộc vào trụ nối lại đằng kia mà làm đàn gọi là độc huyền cầm … Họ đem tính tình các con vật mà so sánh với người , rồi họ truyền tụng rằng ngày thứ nhất trời sinh con chuột , ngày thứ hai sinh con trâu , ngày thứ ba Trời sinh con cọp … ( chuyện thần thoại của người Dao : gốc tích của 12 con giáp của tử vi ngày nay ) … Họ biết tìm hiểu các thức ăn nóng mát ( tức thuyết âm dương ) để trị bệnh , dùng kim đâm vào da thịt lấy máu để trị bệnh ( lễ giác bầu ) , lấy đá hơ nóng áp vào da thịt để trị bệnh … Họ rất quí các loài chim , biết tập chim biết nói … họ có nuôi nhiều chim trĩ sống trên núi rất đẹp ( mà sau nầy Tàu gọi là phụng hoàng ) . Sử Tàu kể rằng vào thời nhà Châu bên Tàu dân Bách Việt quận Việt Thướng đem tặng Vua nhà Châu cặp chim trĩ , sau đó nhờ Tàu dùng xe chỉ nam của Mông Cổ chỉ đường về .

Những ghi chép thường có tính cách kỳ thị là man di . Nhưng những chuyện huyền thoại cổ man di như chuyện ông Bàng Cổ gốc người Dao ( xem Bàn Cổ của Nguyễn Văn Diễn ) , chuyện bà Nữ Oa biết « đội đá vá trời » tức có kinh nghiệm về thời tiết mưa gió , dạy dân theo thời tiết mà trồng trọt , Thần Nông dạy dân làm ruộng , Viêm Đế ( Vua xứ nóng Bách Việt ) thì dân Mông Cổ thích chiếm lấy , chiếm tổ tiên của những người mà họ gọi là Nam Man làm tổ tiên của riêng họ . Thật ra lúc đầu người Hán không quan tâm những câu chuyện có vẻ hoang đường của dân Bách Việt . Nhưng khi họ hiểu ý nghĩa triết lý sâu xa của những câu chuyện hoang đường về các Vị , thì họ chép ngay câu chuyện và nhận ngay các Vị tổ tiên của dân Bách Việt ấy làm tổ tiên của họ . Họ cũng có lý một phần , vì dân Miêu Tộc Tàu là hậu duệ các Vị . Nhưng họ phải hiểu rằng dân Việt Nam mới là con cháu đính thị và chính thống của các Vị .

Tuy người Tàu vẫn biết tổ tiên của người Hán có nguồn gốc Mông Cổ có con vật tổ là cọp trắng , với nhà truyền thống cổ là nhà gốc du mục hình tròn . ( Les premières civilisations LA Chine Ancienne , trang 28-29 , của ông William Watson xuất bản năm 1969 tại Grande Bretagne ; xem hình của BS Thanh vẻ lại dựa theo hình nhà Khảo Cổ của ông William Watson ) . Trong lúc đó nhà cổ của Bách Việt là nhà sàn hình chữ nhật làm bằng tranh và tre cong cho chắc chắn , dần dà sinh ra mái cong . ( xem hình vẻ của BS Nguyễn Thị Thanh , phỏng theo loại nhà minh khí nhà chôn theo người chết bằng đất nung thời Hùng Vương tìm thấy trong Văn Hoá Đông Sơn 2800 năm trước TC ) . Ngày nay thế giới và cả người Việt Nam cũng đều lầm tưởng rằng con rồng ( chỉ là hiện thân của con cá sấu ) con chim phụng ( là hiện thân của loài chim trĩ ) vật tổ của Tàu , và mái nhà cong là Văn Hoá cổ truyền của họ luôn . Chẵng qua đó là hiểu lầm . Ngày nay nhờ Khảo Cổ Học mới có thế chứng minh được sự thật .

VN&LuaNuoc07&08

Dầu sao thì cũng nhờ vào ảnh hưởng Bách Việt mà Tàu phát triển về mọi mặt Văn Hoá sau này và cả Nhật Bản và Đại Hàn cũng nhờ vào ảnh hưởng Bách Việt qua Tàu . Trong lúc đó thế giới đặt biệt là người Pháp cứ cho là Việt Nam bắt chước Tàu . Trong quyễn Les Poteries & Porcelaines Chinoises tác giả là bà Daisy Lion Goldschmidt đã cho rằng Annam bắt chước gốm Hoa Lam của Tàu ( trang 4 ) , trong khi chính Việt Nam có gốm trước Tàu và thợ gốm giỏi Việt bị Tàu bắt về Tàu tất cả ; và gốm hoa Lam Việt có trước Tàu và hoàn toàn khác Tàu ; và ngay cả dân Việt Nam cũng lầm lẩn và lẩm cẩm cho rằng Văn Hoá Việt Nam nhờ ảnh hưởng Văn Hoá Tàu .

Tệ hơn nữa , hiện nay có nhiều nhà khoa bảng Việt Nam còn không biết Văn Hoá là gì , còn cho là dân mình không có Văn Hoá nữa kia , hoặc có chăng chỉ là cái « búi tó trên đầu » ( bài « Bảo Tồn Văn Hoá » ? ! của nhà đại khoa bảng bác sĩ giáo sư Đại Học danh tiếng Mỹ kiêm nhà văn Vủ Đình Minh biệt hiệu là Mai Kim Ngọc đăng trên nhiều báo đặc biệt là báo Y giới : bài viết có tính cách mĩa mai Việt Nam không có Văn Hoá gì để mà bảo tồn ‘hết trơn hết trọi , hoặc giả có chăng’ chỉ có cái « búi tó » của ông nội’ nhà khoa bảng MKN ) .

Trở lại nông nghiệp của dân Bách Việt . Làm ruộng cần công cụ . Nền nông nghiệp sinh công nghiệp . Công nghiệp sản xuất công cụ cho thợ đá , kỹ nghệ đá , cho thợ đồng , kỹ nghệ đồng và các thứ tiểu công nghiệp khác như nghề nuôi tằm dệt vải , làm đồ gốm của nước ta từ trước thời các Vua Hùng cho đến thời Bắc Thuộc lần đầu tiên ( 111 tr TC ) đã phát triển xa hơn Tàu và không hề nhờ phương bắc giáo huấn .

Trái lại các thợ giỏi và kỹ thuật cao của nước ta bị sức mạnh cướp lấy để phát triển , dành lấy làm Văn Hoá của mình . Trong thời gian bị trị dân Việt cổ bị cấm tuyệt mọi sinh hoạt kỹ nghệ bản địa công khai . Vì vậy những nền Văn Hoá thời tiền và sơ sử Việt Nam bị ngưng hẵn từ thời Bắc Thuộc lần đầu dau 111 Tr CN . Thế giới cũng hiểu rằng Tàu đã ngăn chặn những nền văn minh tiền sử Việt Nam và đã xung phong vào để tiếp nối những nền văn minh tiền sử đó ( sẽ có bằng chứng rõ sau nầy vậy ) .

Từ trước đến nay chúng ta chưa khẳng định được những điều nói trên mà phải chờ di vật cổ tổ tiên để lại trong lòng đất mới có đủ luận cứ thuyết phục cho chính chúng ta và thế giới . Khảo Cổ Học đã nói lên cho chúng ta biết rất nhiều điều bí ẩn mà ngoại quốc đã hiểu lầm hoặc che dấu và xuyên tạc . Nhờ vậy ngày nay rất nhiều học giả Tàu đã công nhận sự thật về nguồn gốc Bách Việt trong Văn Hoá Tàu .

Từ khi người Pháp qua cai trị nước ta , họ chiếm độc quyền về khoa Khảo Cổ . Từ cuối thế kỷ 19 và đầu thế kỷ 20 , Khảo Cổ Học đã tìm ra ở trên đất nước chúng ta hiện tại , đặc biệt là từ miền Bắc vào Miền Trung từ xưa là đất cổ Việt Thường , đó chỉ là phần nhỏ của nước Việt Cổ . Tuy vậy cho đến nay người ta đã tìm thấy rất nhiều nền văn minh tiền sử Việt Nam cổ liên tục nối đuôi nhau trên đất Bắc và Trung Việt . Thường khi tìm được di chỉ Văn Hoá ở đâu đầu tiên người ta lấy tên địa phương mà đặt cho nền Văn Hoá đó .

Văn Hoá Việt cổ xưa nhất còn gặp nhiều di vật cách đây từ 30 000 năm trở lại được tìm thấy ở núi Đọ , thôn Sơn vi tỉnh Vĩnh Phú được đặt tên là Văn Hoá Sơn vi hay Tiền Hoà Bình . Nền Văn Hoá nầy được tìm thấy rải rác khắp miền Bắc và Trung Việt . Tuy việc tìm kiếm là ngẫu nhiên , nhưng nhờ vào sự giàu thịnh nên người ta đã tìm thấy rất nhiều nền Văn Hoá có tính cách liên tục nối tiếp nhau từ Văn Hoá Sơn Vi ( 30000-15 000 năm tr CN ) qua Hoà Bình ( 16000-7000 tr CN ) đến Bắc Sơn rực rở , Quỳnh Văn , Phùng Nguyên , Đồng Đậu , Gò Mun , Hoa lạc … dần dần đến Văn Hoá Đông Sơn huy hoàng có niên đại từ 800 năm đến 111 năm tr CN là thời gian bị Bắc Thuộc lần đầu . Rồi từ 111 tr TC Văn Hoá nước ta ngưng hẳn chìm lỉm , vì sao ? Hỏi tức nhiên là đã trả lời . Dư âm của các nền Văn Hoá trên còn âm thầm kéo dài thêm vài thế kỷ sau Bắc Thuộc rồi bị Tàu thôn tính và ẳm đi luôn .

Khi nói đến Văn Hoá Hoà Bình ( di chỉ tìm thấy ở tỉnh Hoà bình Bắc Việt ) trong những nền Văn Hoá tiền sử nước ta , thì từ lâu giới Khảo Cổ Học và trí thức thế giới đều biết rằng đó là một trung tâm nông nghiệp và công nghiệp đá xưa nhất thế giới .

Nhưng vì sao dân tộc ta như các sử gia Trần Trọng Kim , Đào Duy Anh cứ luôn cho mình là dân man di , được Hán khai sáng , dạy cho cưới vợ hỏi chồng , dạy cho nông nghiệp … Suốt 1 000 năm cai trị , Hán lấy tài nguyên sản vật quí , và bắt thợ giỏi , gái đẹp cùng ngăn cấm dân truyền tụng Văn Hoá cổ , ngăn cấm dân ta phát triển kinh tế , và đập phá tất cả mọi công trình công nghiệp điển hình là gốm , lò luyện kim , lò đúc đồng , trống đồng , đúc sắt .

Dân Việt sợ , ai có đồ gốm và đồ đồng , trống đồng thì đem chôn dấu . May thay Khảo Cổ Học đã lấy lên từ lòng đất những sự thật về Văn Hoá tiền sử và sơ sử nước nhà . Nghiên cứu tài liệu Khảo Cổ , đối chiếu với tài liệu sử học là việc làm có bằng chứng khoa học vững vàng giúp chúng ta tìm hiểu nguồn gốc Văn Hoá dân tộc . Lịch sử Văn Hoá mỹ thuật dân tộc Việt Nam cần được soi tỏ dưới ánh sáng khoa học một cách công minh .

Khác với lịch sử , sử gia có thẩm quyền ghi chép nhiều ít theo ý mình những sự việc xẩy ra , Văn Hoá mỹ thuật lịch sử cần những sự thật cụ thể được chứng minh bằng khoa học . Lịch sử phụ thuộc sử gia , trong lúc Văn Hoá mỹ thuật lịch sử là công trình của tiền nhân để lại một cách đích thực , hiển nhiên , không thể chối cải hay làm méo mó sự thật được .

Văn Hoá mỹ thuật lịch sử giúp tìm hiểu con người , hoàn cảnh , nghệ thuật , trình độ tiến hoá , sinh hoạt gia đình làng xã . Thế cho nên Văn Hoá mỹ thuật tiền sử là một khoa học lịch sử tuy khó khăn nhưng vô cùng quí báu lý thú . Những cổ vật là vô tri , nhưng qua đó chúng ta có thể tìm hiểu được cách sống , cá tính , tinh thần tập thể , tình cảm , hoài bảo và tư tưởng triết thuyết trong cuộc sống vật chất và tinh thần của tiền nhân . Vì vậy có thể nào chấp nhận lịch sử Văn Hoá nước nhà qua hành động và lời lẻ khinh bạc , dìm dập , xuyên tạc của thực dân ngoại lai Tây và tay sai người Việt trong nước của họ .

Trở lại các thị tộc du mục Mông Cổ , thuỷ tổ nhà Hán vượt sông Hoàng Hà đến chiếm dần dà trung nguyên bao la rộng lớn mà lập nên nước Tàu vĩ đại . Nghề nông là do dân Bách Việt làm từ lâu đời trước khi Mông Cổ đến chiếm , họ tiếp tục làm . Vị tù trưởng Mông Cổ lên ngôi đầu tiên xưng là Hiên Viên Hoàng đế và biến dân Bách Việt thành nô lệ chỉ được quyền làm nghề nông làm nơ dân , thị tì hay làm lính .

Như vậy khi đến chiếm lục địa trung nguyên dân Mông Cổ được thừa hưởng tài sản nông nghiệp của bao nhiêu đời Bách Việt truyền lại . Tuy vậy xưa kia Hán Tộc Mông Cổ rất kỳ thị , khinh miệt và đối xử tàn ác với Miêu Tộc Tàu , do đó mới sinh ra chế độ nô lệ . Dân nô lệ Bách Việt thường chỉ được sống với nghề bản xứ , trồng trọt , đánh cá hay đánh giặc . Dân Hán là dân nắm chính quyền vẫn còn nhớ , yêu thích nghề du mục xưa , nên lấy sự săn bắn làm một thú tiêu khiển cho hàng vương giả .

Sau trận Trác Lộc , lớp Bách Việt thuộc hàng lãnh đạo bỏ chạy về phương Nam là vùng đất cực nam của Bách Việt lập nên nước Việt cổ . Cũng lại bị nhà Hán đến đô hộ , và sự đô hộ kéo dài ngót 1000 năm . Nhà Hán vừa chiếm Việt cổ họ thi hành ngay chính sách thực dân , thâu nạp không những của cải vật chất , mà họ còn rất chú trọng đến tài nguyên trí tuệ . Nhà Hán đã chiếm Văn Hoá tiền và sơ sử của Bách Việt trên lục địa Tàu từ trước . Nay lại chiếm luôn cả Văn Hoá sơ sử Việt Nam của nước Lĩnh Nam của Vua Trưng Trắc từ Động Đình Hồ trở xuống Miền Bắc và Miền Trung Việt Nam cổ .

Tộc Hán Mông có thâm ý làm cho người Tàu gốc Bách Việt và người Việt cổ quên hẳn quá khứ của giống nòi hầu dễ dàng buộc họ đồng hoá và chấp nhận rằng chính nhà Hán Mông Cổ khai hoá ra Bách Việt . Người Tàu đã được sinh ra từ Mông Cổ đồng hoá với Bách Việt . Và nhà Nguyên Mông Cổ và nhà Thanh Mãn Châu sau nầy cũng lại bị Tàu đồng hoá lần nữa . Như vậy cũng có thể nói rằng Mông Cổ và Mãn Thanh đã bị « man di » Miêu Tộc Bách việt đồng hoá thành Tàu .

Người Tàu Mông Cổ vốn có vật tổ là cọp trắng , và nhà cổ là nhà hình tròn gốc du mục như đã nói trên nhưng khi họ thấy vật tổ Bách Việt rồng phụng , và nhà cổ Bách Việt mái cong , có vẻ đẹp tao nhã , mỹ thuật , nên họ đã chiếm ngay Văn Hoá nhà cổ và rồng phụng Bách Việt làm của họ và người mình không hề dám hé môi hay trăn trối với con cháu gì cả .

Gần đây đào được trống đồng ở Vân Nam , Khảo Cổ gia Tàu cũng tuyên bố ầm ỷ là trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng sãn xuất ! Sao họ có thể quên Hậu Hán Thư quyển 14 ghi rõ : Dân Giao Chỉ có linh vật là trống đồng , nghe đánh lên họ rất hăng lúc lâm trận … Chính Vua Quang Võ nhà Đông Hán đã ra lệnh cho Mã Viện phải phá huỷ trống đồng Bách Việt . Đất Hoa Nam hiện tại là đất Việt cổ tìm thấy trống đồng là việc đương nhiên . Hậu Hán Thư quyển 14 chép : Mã Viện là người thích cưởi ngựa giỏi , biết phân biệt ngựa tốt . Lúc ở Giao Chỉ Viện lấy được trống đồng đem đúc ngựa … ( xem hình chụp Hậu Hán Thư )

Phương Mã Viện phá trống đồng Bách Việt để đúc ngựa

Mã Viện cũng đã phá trống đồng để đúc cột đồng trụ để chiếm cho chắc ăn phần đất từ Động Đình Hồ trở xuống phía Nm của nước Lĩnh Nam . Và vì sợ dân Giao Chỉ lấy cột đồng đúc trống và phá huỷ biên giới do Mã Viện đề ra , nên Mã Viện ghi Đồng trụ chiết – Giao Chỉ diệt để doạ dân Việt cổ . Nhưng rồi chắc là dân ta cũng đã lén lấy đồng trụ để đúc trống vì thiếu đồng , nên đồng trụ biến mất . Ngoài ra , vì cần đồng để đúc trống nên dân Việt cổ thường đem vàng bạc ngọc ngà hạt trai , sản phẩm quí đồi lấy tiền đồng của người Hoa cổ . Trước đó chính bà Lữ Hậu vợ Vua Thái Tổ nhà Hán là Lưu Bang đã ra lệnh cấm bán , đổi chác tiền đồng cho dân Giao Chỉ .

Riêng Mã Viện , từ khi thắng Vua Trưng Vương , biết dân Giao Chỉ coi trống đồng như là một linh vật giữ nước . Mã Viện , có kinh nghiệm về việc Trưng Vương ra trận dùng trống đồng thúc quân , thấy uy lực trống đồng của Bách Việt rất lớn , giúp họ đánh giặc vô cùng hăng hái . Việc đúc ngựa , đúc đồng trụ chỉ là cái cớ để Mã Viện tiêu huỷ linh vật của Bách Việt mà thôi . Vậy ai dám bảo trống đồng do Mã Viện và Gia Cát Lượng đúc thì thật là xuyên tạc lịch sử mỹ thuật Việt Nam một cách trắng trợn .

Nhân đây xin kể một trường hợp xuyên tạc , bình gốm Hoa Lam cổ , trưng bày ở viện bảo tàng Istambul . Cách đây trên 50 năm Tàu và Nhật tìm xem có thể là của họ không . Nhưng đến khi thấy niên hiệu ghi trên bình là niên hiệu Vua Việt « Thái hoà bát niên , Bùi Thị Hi bút » ( xem hình ) , người Hoa bèn bảo đó là … của một ông thầy Tàu qua Việt Nam chơi , làm để lại … Vào Thời kỳ đó người ta hoàn toàn chưa biết Việt Nam đã có lò gốm hoa lam rất sớm từ trước thế kỷ 12 , 13 với màu xanh bản địa chứ không nhập cảng màu xanh tươi của Ba Tư như Tàu .

Bình cổ Việt Nam thế kỷ 15 có khắc « Thái Hồ Bát Niên ,
Bùi Thị Hý Bút » hiện chưng tại BTV Istambul

Phải mất 30 năm sau , khi Khảo Cổ Học Việt Nam tìm thấy dấu tích nhiều lò nung gốm cổ hoa lam trên đất Bắc từ thế kỷ 10 , 11 , 12 , 13 cùng những sản phẩm phế thải của lò và những gốm Việt Nam cổ có hoa văn giống hoa văn trên độc bình ở Istambul , mới chứng minh đích thực bình cổ danh tiếng ở bảo tàng viện Istambul là của Việt Nam do một phụ nữ là Bùi Thị Hi trang trí chứ không phải là một ông Bùi Thị hí bút .

Nhân đây với tấm lòng tôn trọng sự thật tôi xin nói lên một điều bí mật : Bình gốm hoa lam Istambul nhìn bề ngồi là của VN , nhưng kỳ thật nó là đứa con chung của Việt Nam và Tàu . Tại sao vậy ? Xin nghe câu chuyện có thật sau đây : Vào thế kỷ 15 khắp miền ĐNÁ rất yêu chuộng mỹ thuật hoa văn dây của Việt Nam do các lị Bát Tràng sản xuất . Vì lẽ đó , dân Tàu bèn làm đồ gốm còn mộc , nghĩa là chưa tráng men , đem nung chín ; xong chở sang các lò gốm Bát Tràng của ta thuê vẽ hình hoa cúc dây , hoa hướng dương dây vv . Vẽ xong người Tàu thuê tàu của Ấn Độ chở đi bán khắp nơi . Sự kiện này còn ghi lại ở Viện Bảo Tàng Paris Pháp . Đó là sự thật về bình gốm Istambul . Hình dáng mạnh mẽ oai phương với chiếc cổ cao dài thẳng lên là kiểu cách của người Mông Cổ .

Trở lại vấn đề nông nghiệp . Dân Mông Cổ là dân sống bằng săn bắn và du mục . Do đó họ không thể nào là những người đã phát sinh ra nền Văn Hoá nông nghiệp . Và như thế họ cũng chẵng bao giờ có họ hàng và cần thiết có họ hàng với các ông Thần Nông , người tài giỏi về làm ruộng ; bà Nữ Oa đội đá vá trời tức là người tìm hiểu và kinh nghiệm nhiều về thời tiết giúp nhà nông làm ruộng .

Dân du mục phải thường xuyên chống chọi với thú rừng , cũng như chống chọi với các đoàn du mục khác , họ phải đấu tranh không ngừng . Vì thế họ là một chủng tộc mạnh , tài nghệ bắn cung , cưỡi ngựa , đô vật , đâm chém của họ rất cao . Chính nhờ vào tài nghệ nầy mà họ đã thành công trong việc chiếm lục địa Tàu và chiếm Việt Nam sau nầy .

Giòng máu du mục buộc họ luôn sẵn sàng chiến đấu , từ đó nảy sinh giòng máu xâm lăng . Vả lại khí trời miền Bắc lạnh , nên bản chất họ rất khỏe , và rất sợ khí nóng ở miền nhiệt đới nông nghiệp mà họ coi là nơi âm phong chướng khí . Cũng vì lý do đó , người Tàu gốc Mông Cổ không thể có các vị Vua Thần Nông Vua trồng trọt xứ nóng tức là Vua Viêm Đế , cần thiết của nhà nông . Dân Bách Việt hiền lành ở miền Nam lo nghề nông , không quen đánh giặc bị họ chiếm hết đất đai và Văn Hoá .

Suốt trong nhiều thế kỷ chúng ta hầu như chỉ học cho biết rằng Việt Cổ là một đất nước vô Văn Hoá , man di , được nhờ Tàu Mông Cổ khai hoá . Dầu rằng Tàu gốc Mông Cổ không chứng minh được Văn Hoá tiền sử của họ . Như thế đủ thấy ảnh hưởng của việc bị đô hộ Tàu , kể cả Tây sau nầy , là nguy hiểm như thế nào !

Chính vì vậy mà LM Triết Gia Kim Định đã gia công nghiên cứu một triết lý An Việt và nói đến « … một nền Văn Hoá Việt Nam cổ mồ côi … » . Nhưng Văn Hoá tiền sử Việt Nam đã bị che dấu và cướp đoạt vì sức mạnh , chứ nhất thiết không hẳn là một Văn Hoá mồ côi . Văn Hoá Việt cổ có mẹ đẻ từ các nền Văn Hoá tiền sử Việt Nam , và đã sinh đứa con khổng lồ là nền Văn Hoá siêu việt Tàu . Chính Văn Hoá Tàu lúc không nhận là con đẻ của Văn Hoá Bách Việt , là một Văn Hoá mồ côi . Lúc Tưởng Giới Thạch ra lệnh nghiên cứu về Văn Hoá Tàu từ ngày nay trở về trước . Nhưng khi lên đến nhà Hán và thời Khổng Tử , các nghiên cứu gia Tàu Dân Quốc đành bỏ dở vì vấp phải nguồn gốc Văn Hoá Bách Việt !

Với thực dân Pháp , trong vòng gần 80 năm đô hộ Việt Nam , chúng ta nhìn thấy biết bao tài sản của nước ta Pháp đã đem về xây dựng đất nước họ , làm giàu Viện Bảo Tàng của họ , nào đàn đá báu vật hiếm quí , nào 4 quyển sách trước tác của cụ Nguyễn Du … & … Pháp cướp về nước tất . Tương lai gần chúng ta nhất định phải đòi lại tài sản bị cướp , đòi bồi thường .

Như đã nói trên , trong thời gian bị thực dân Pháp đô hộ , việc Khảo Cổ trên đất nước ta chỉ dành độc quyền cho người Pháp . Chuyên gia và Khảo Cổ gia Việt Nam có đóng góp công lao ý kiến cũng không được ghi lại . Người Pháp mà tiêu biểu là ông H . Mansuy đã có những phán đoán sai lạc , lập luận lầm lẫn về Văn Hoá mỹ thuật tiền sữ và lịch sử Việt Nam . Trước những khám phá về Văn Hoá tiền sử và lịch sử Việt Nam , ông ta luôn có thành kiến rằng , bao nhiêu nền Văn Hoá xa xưa của Việt Nam cổ từ thời tiền sử vốn chỉ là … Hàng nhập cảng … Hàng vay mượn … & … Hàng thiên di … của phương Bắc hay phương Tây !

Từ trước , với phong cách thực dân khi Ông H Mansuy nhìn thấy những viên gạch lót nền nhà cổ có hoa văn đẹp ( xem hình gạch lót nhà có hoa văn ) , đào lên từ lòng đất , đã nói rằng : Đây là gạch nhập cảng để làm bàn thờ chứ không thể lót nền nhà .


Gạch cổ Việt Nam Gạch lát nhà Hưng Đạo Vương ở Vạn Kiếp

Ngày nay , chúng ta đã tìm thấy nhiều lò gạch cổ sản xuất gạch có khắc hoa văn ở Bắc Hà , và đã đào được nền nhà lót gạch có hoa văn thời nhà Trần , ví dụ nền nhà có lót gạch hoa văn của Hưng Đạo Vương tại Vạn Kiếp . Và các nhà học giả về Khảo Cổ Học khắp thế giới và Việt Nam đã chứng minh về tính chất bản địa của những nền Văn Hoá tiền sử xưa nhất và phát triển nhất trên đất nước Việt Nam mà đặc biệt là Văn Hoá Hoà Bình với sự ra đời sớm nhất thế giới của nông nghiệp lúa nước cũng như các nền Văn Hoá lịch sử sau nầy .

Có những người Việt Nam mà đại diện là ông Nguyễn Văn Tốt đã đọc sách tây thực dân , sao chép lại nguyên văn làm sách , mặc dầu thế giới đã cải chính trước đó rất lâu . Ông Trần Văn Tốt đã theo đúng luận điệu thực dân của H Mansuy mà viết sai lạc về Văn Hoá Hoà Bình và Văn Hoá Bắc Sơn rằng : Người Hoà Bình có mặt trên đất nước Việt Nam vào khoảng từ 5000 đến 3000 trước TC … coi như chưa biết gì về nông nghiệp và chăn nuôi , không biết gì gốm … Đá mài đã có vào thời Bắc Sơn , nhưng ít được xử dụng ; Nghệ thuật đá mài có vai rất tiêu biểu cho Văn Hoá tộc họ Auxtro asiatique , được dùng nhiều ở miền Trung Đông Dương . Người ta đã cho là những rìu mài nầy đươc nhập cảng từ Tây Tạng , Giang Nam bên Tàu , vì chúng nó cũng có ở Hoa Nam , ấn Dộ , Nhật Bổn , Đại Hàn … Và những dụng cụ đá mài hình dĩa là của Văn Hoá Úc từ Tàu truyền xuống …

Than ôi ! thật vô cùng đáng trách ! ông Tốt đã sao chép lại y nguyên những lập luận lầm lạc và vội vàng và đầy dẫy thành kiến đầu tiên của ông Mansuy mà bỏ qua mọi chứng minh khoa học xác đáng và mới mẻ hơn của các ông CO Sauer và WG Solheim , không biết với mục đích gì ? Như thế phải chăng ông Tốt đã vô tình hay cố ý làm tay sai cho thực dân lỗi thời mà thế giới đã lên án ! ? Ông Tốt đã theo đuôi thực dân đưa ra một thứ suy luận hàm hồ , vì hễ cứ thấy nơi nào có , thì tất là … nhập cảng của nơi đó … bất chấp cả thời gian nơi nào có trước , nơi nào có sau , và bất chấp cả nơi nào có tính cách sản xuất nghiệp vụ và nơi nào có tính cách tiêu thụ . Vậy thì ông Tốt viết sách về Văn Hoá tiền sử Việt Nam , phải chăng để tìm cách dìm dập thoá mạ tổ tiên mình hay là để nối giáo cho giặc ?

Nhà học giả Sauer Hoa Kỳ đã viết trong quyển Đồng Quê :
Đúng là nông nghiệp đã tiến triển qua 2 giai đoạn , mà giai đoạn đầu là giai đoạn của Văn Hoá Hoà Bình , lúa nước đã được trồng cùng một lúc với củ môn nước ( Khoai Sọ ) .

Đến nay tất cả các nhà Khảo Cổ Học , sử học Hoa Kỳ như các ông C Sauwer , R Somhein , Trương Quang Trực ( Ông Trực là người Mỹ gốc Tàu ) , ông Jorhman và học giả Liên Xô ông N Vavilow đều công nhận :
Đông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam đã có một nền Văn Hoá tiền sử phát triển rất sớm sủa , tiên tiến và nhanh chóng , sáng tạo và sống động chưa từng thấy một nơi nào khác trên Thế Giới .

Chúng ta hãy nghe mấy dòng sôi nổi của ông CO Sauer viết trong quyển Agricultural Origins and Dispersals Xuất bản ở New York :
Tôi đã chứng minh Đông Nam Á là cái nôi của nền nông nghiệp xưa nhất . Và tôi cũng chứng minh rằng Văn Hoá nông nghiệp có nguồn gốc gắn liền với đánh cá bằng lưới ở xứ này . Tôi cũng chứng minh rằng những động vật gia súc xưa nhất bắt nguồn từ Đông Nam Á , và đây là trung tâm quan trọng của thế y giới về kỷ thuật trồng trọt và cải biến cây cối bằng cách tái sinh sản thực vật .

Trước đây người ta vẫn ca tụng địa điểm văn minh tân thạch khí ở vùng Tây Á Tiểu Á và cho rằng đây là một xứ nông nghiệp xưa nhất thế giới . Vì đã có những niên đại C14 lên đến thiên niên kỷ thứ VI , thứ VII . Việc phát hiện ra nền nông nghiệp tại Hoà Bình cách đây trên 10 000 năm đã làm cho thế giới rung chuyển , chao động .

Như vậy trung tâm nông nghiệp xưa nhất không còn là vùng Lưởng Hà mà là Đông Nam Á mà chủ đạo là Việt Nam . Việt Nam đóng vai trò quan trọng nhất vì nơi đây là điểm phát xuất chính . Chúng ta hãy nghe lời bình luận xác đáng của ông WG Solheim II đã viết từ năm 1967 :Tôi cho rằng khi chúng ta nghiên cứu lại nhiều cứ liệu ở lục địa Đông Nam Á , chúng ta hoàn toàn có thể phát giác ra rằng việc thuần thục hoá cây trồng đầu tiên trên thế giới đã được dân cư Hoà Bình ( Việt Nam ) hoàn thành vào khoảng 10 000 năm trước TC … 

... Rằng Văn Hoá Hoà Bình là Văn Hoá bản địa không hề chịu ảnh hưởng của bên ngoài , đưa tới Văn Hoá Bắc Sơn ( Việt Nam ) … Rằng miền Bắc và miền Trung lục địa Đông Nam Á có những Văn Hoá tiến bộ mà trong đó đã có sự phát triển của dụng cụ đá mài láng đầu tiên của Châu Á , nếu không nói là đầu tiên trên thế giới và đồ gốm đã được phát minh …

Rằng không phải là sự thuần hoá thựt vật đầu tiên như ông Sauer đã gợi ý và chứng minh mà thôi . Mà còn đi xa hơn , nơi đây đã cung cấp tư tuởng về nông nghiệp cho phương Tây . Và sau nầy một số cây đã được truyền đến Ấn Độ và Phi Châu . Và Đông Nam Á còn tiếp tục là một khu vực tiền tiến ở Viển Đông cho đến khi Tàu thay thế xung lực này vào nữa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr TC tức khoảng 1500 tr TC .

Nửa đầu thiên niên kỷ thứ 2 tr CN tức khoảng 1500 sau khi Mông Cổ chiếm lục địa Tàu non 1500 năm .

Như đã nói trên , Tàu thừa hưởng Văn Hoá nông nghiệp phát triển nhờ dân Bách Việt còn lại trên hoa lục . Chính nhờ sự phát triển của những sắc dân Bách Việt nầy mà Tàu rộng lớn có đủ tư cách thay thế xung lực phát triển nông nghiệp Đông Nam Á vào khoảng năm 1500 tr CN . Như vậy chứng tỏ chính dân Bách Việt tức Việt cổ dạy Tàu nông nghiệp chứ không phải ngược lại như Trần Trọng Kim đã viết trong Việt Nam Sử Lược .

Chúng ta phải xúc động trước những lập luận rất vô tư , công bằng và rất khoa học của Solheim II , cũng như rất xúc động trước nắm gạo bị cháy dở hoá thạch đã tìm thấy ở Đồng Đậu Vỉnh Phú có niên đại 5 .500 năm trước CN tức cách đây 7 .500 năm ( C14 ) . Nắm gạo cháy dở của thời phát trịển trồng lúa nước nầy cũng chứng minh cho chúng ta rằng lúa nước đã được trồng từ rất lâu không ai biết được trước lúc nắm gạo bị cháy như ông Sauer đã cho rằng lúa nước đi đôi với nghề đánh cá .

Những sự kiện trên đây đã được công bố lên thế giới từ lâu . Với CO Sauer chẳng hạn , trong quyển Agricultural Orgins and Dispersals – New York 1952 , với Wilhelm G Solheim trong quyển « Southeast Asia and the West . Science vol 157 , 1967 , p 899 » . Ít nhất là trước thời gian mà ông Trần Văn Tốt xuất bản quyển <> bằng tiếng Pháp năm 1969 . Chúng tôi nói ngay mặt ông Trần Văn Tốt rằng một trong các Văn Hoá tiền sử Việt Nam , Văn Hoá Hoà Bình của Việt Nam không phải là đứa con nuôi , con vay mượn , con hoang , hay con mồ côi , nó chính là con đẻ của Văn Hoá Sơn vi kéo dài từ rất xa xưa có thể lên đến 300 000 năm đến 25 000 năm tr CN . Thường người ta lấy một niên đại tượng trưng gần nhầt là 30 000 năm làm mốc trung gian . Và để tiếp tục cuộc đời , Văn Hoá Hoà Bình đã dẫn đưa nhanh chóng đến một nền Văn Hoá nổi danh thế giới của Việt Nam cổ là Văn Hoá Bắc Sơn . Và từ Văn Hoá Bắc Sơn đến các nền Văn Hoá Quỳnh Văn , Bầu Tró , Hoa Lạc , Phùng Nguyên , Gò Mun , Đồng Đậu và cuối cùng là Đông Sơn .

Sự liên tục của các nền Văn Hoá luôn được duy trì bằng những chứng minh cụ thể . Thật vậy các nền Văn Hoá Việt Nam cổ ngày càng được tìm thấy là có những bước tiến mạnh mẽ , những nét phát triển huy hoàng . Mãi cho đến thời Bắc Thuộc lần thứ I thì , Văn Hoá Đông Sơn nước ta , bắt nguồn từ thời tiền sử , bị ngưng hẳn như đã nói trên .

Chính giặc Mông Cổ là những người đã xâm lăng các nền Văn Hoá tiền sử và sơ sử Việt cổ từ trên đất Trung Nguyên cho đến Việt Nam . Họ chiếm lấy hết , vừa đất đai , vừa công trình , vừa công cụ , vừa con người , vừa những người thợ tài giỏi Việt cổ đem về Tàu để phát triển nên nền Văn Hoá siêu việt của Tàu sau này .

Đồng thời cướp lấy , họ phá hoại , họ cấm cản mọi sự phát triển Văn Hoá địa phương của kẻ bị trị : trong suốt non 1000 năm đô hộ , họ đã cố tâm cướp đoạt , huỷ hoại , cấm đoán , dìm dập và dấu diếm tất cả mọi vết tích , mọi hình thức phát triển của Văn Hoá lịch sử Việt Nam . Lòng đất đã được phơi bày mọi sự thât . Chính sách vở và các học giả Tàu hiện đại cũng đã nhìn nhận những sự thật trên .

Văn Hoá Việt Nam bị tê liệt , bị biến mất do xâm lăng và cướp giựt của Tàu . 1000 năm quá dài , con cháu không được truyền đạt , nên dần dà người Việt Nam tự cho là mình đã được người Tàu khai hoá như các sử gia Trần Trọng Kim và Đào duy Anh nói trên , thật là hổ thẹn với tiền nhân thay ! ! !

Từ rất sớm , năm 1932 , tại Đại Hội Nghị Quốc Tế của các nhà Khảo Cổ tiền sử học Viễn Đông , vấn đề Văn Hoá Hoà Bình nước ta đã được xác nhận một cách chính đáng . Vấn đề thực tiễn là nền Văn Hoá Hoà Bình có mặt trên toàn thế giới . Nhưng điều quan trọng ở đây là nền Văn Hoá nầy đã được tìm thấy ở Việt Nam sớm hơn đâu cả , nghĩa là có trước những nơi khác trên thế giới và tìm thấy ở Hoà Bình tại một làng nhỏ Việt Nam , ở vào một thời gian xa xưa nhất ( cách đây trên 16000 ) đối với các nơi khác trên thế giới . Điều nầy có nghĩa là người Việt cổ tại Hoà Bình Việt Nam đã làm nên nền Văn Hoá Hoà Bình trước nhất trong nhân loại . Nói một cách khác , người Hoà Bình trên đất Việt Nam đã có một thời văn minh xưa nhất thế giới , đó là sự thật mà khoa Khảo Cổ Học thế giới minh chứng và xác quyết . Thế nên Khảo Cổ Học thế giới đã lấy tên của một làng quê Hoà Bình Bắc Việt đặt tên cho nền Văn Hoá nầy gọi là Văn Hoá Hoà Bình cho toàn thế giới ( xem Encyclopédie d’Archéologie ) .

Thế là Hoà Bình tại Việt Nam đã được coi là trung tâm văn minh tiền sử đầu tiên của nhân loại về nông nghiệp lúa nước và về công nghiệp đá . Chẳng những nền văn minh tiền sử nầy ngang hàng với Trung Mỹ và miền Lưỡng Hà về phương diện kỹ thuật . Một điểm rất đáng hãnh diện là :
Hoà Bình đã được thế giới xác nhận là trung tâm phát minh nông nghiệp và sản xuất nông nghiệp cùng chăn nuôi gia súc đầu tiên trên thế giới .

Trung tâm nông nghiêp cùng chăn nuôi đầu tiên trên thế giới tại Hoà Bình Việt Nam đã có trước vùng Lưỡng Hà đến 3000 năm . Như vậy thì còn điểm nào nghi ngờ rằng nơi nào nhập cảng nơi nào !

Hoà Bình , trung tâm văn minh nông nghiệp đầu tiên của nhân loại trên Thế Giới , để rồi từ đó nền văn minh trên được lan tràn khắp vùng Đông Nam Á : Tàu , Nhựt Bản , Mả Lai , Thái Lan , Ấn Độ … Mà ở Hoà Bình là nơi sầm uất , giàu thịnh hơn đâu hết và đã có vị Vua Viêm Đế , Vua nóng tượng trưng cho mùa trồng trọt . Thần Nông là người đã nghiên cứu dạy nghề nông và được tôn sùng như một vị Vua , và có bà Nữ Oa là người đã nghiên cứu thời tiết nắng mưa , cùng các ngày lễ , ngày Tết phù hợp với mùa màng và sự nghỉ ngơi của người nông dân sau khi mùa đã thâu hoạch . Bà Nữ Oa đã nghiên cứu thời tiết lúc gieo , lúc cấy , lúc gặt , mà dạy dân làm ruộng không thất mùa . Vì thế dân gian coi Bà Nữ Oa như một vị thần linh có khả năng lấy đá vá Trời .

Văn Hoá tiền sử nước ta đã thu hút thế giới vào Văn Hoá Hoà Bình . Một trung tâm kinh tế sản xuất đầu tiên trên thế giới . Một trung tâm kỹ nghệ đá đầu tiên của nhân loại , trước rất xa Văn Hoá Lưỡng Hà và Trung Mỹ ( Mexico hiện tại ) đến cả 3 thiên niên kỷ . Bước tiến này nhảy vọt mạnh với Văn Hoá Hoà Bình , có lẽ một phần cũng nhờ ở biến cố thiên nhiên là trận Đại Hồng Thuỷ thế giới đã xẩy ra thời Văn Hoá Hoà Bình . Nói chung đó chỉ là một suy luận , nhưng thật chất là đã có sự phát triển liên tục và rõ ràng từ Văn Hoá Sơn vi đến Hoà Bình và từ Hoà Bình đến Đông Sơn .

Tiềm lực của Văn Hoá Hoà Bình là càng ngày càng đưa con người thích nghi nhu cầu sự sống với một cố gắng như là một cuộc cách mạng . Đó là cuộc cách mạng sinh sống bằng kỹ nghệ sản xuất công cụ để bán đi khắp nơi cho thợ đá . Và dụng cụ nông nghiệp đá cho người dùng . Với nhu cầu sản xuất nông nghiệp mới nầy , tất nhiên kỷ nghệ đồ đá phải phát triển . Văn Hoá Hoà Bình là Văn Hoá đá giữa , nên nó có một ảnh hưởng sâu rộng về nghệ thuật đá mới . Vì chính nơi đây , Hoà Bình , trên đất nước Việt cổ , là điểm phát xuất ra nhũng nền Văn Hoá thuộc nền cách mạng đá mới của các nước Tàu , Nhật Bản , Philippines , Indonesia , Mã Đảo và cả miền Địa Trung Hải … Chính vì vậy , Việt Nam chính là trung tâm cách mạng sản xuất đá mới đã được Thế Giới khẳng định .

Có rất nhiều tầng Văn Hoá của các nước trên thế giới thuộc Văn Hoá Hoà bình nhưng trẻ trung hơn , tức ra đời sau hơn nhiều , so với Hoà Bình , đã được nghiên cứu đến và đều được qui về Văn Hoá Hoà Bình .

Thế Giới đã khẳng định rằng trong những nền Văn Hoá ấy
không hề có nghệ thuật chế tạo Đá Sỏi như ở Việt Nam

Thời gian , thời tiết và mưa nắng đã làm tan vỡ rồi bào mòn và tẩy sạch những tảng đá lớn . Hạt nhân đá còn lại có độ cứng rất cao gọi là đá sỏi hay đá cuội . Chế tạo những hòn đá cứng nầy rất khó khăn . Nhưng người ta cần những rìu đá , búa đá , dao đá bằng đá sỏi mới có thể sản xuất ra những rìu , búa , dao , cày đá bằng đá tảng mềm hơn cho người nông dân .

Ghè đẻo trên đá sỏi cứng rất khó , nhưng rất cần thiết . Vì những công cụ bằng đá sỏi cứng dùng để chế ra các công cụ đá tảng dễ dàng hơn . Chỉ ở Hoà Bình mới có nghệ thuật chế tác đá sỏi cứng , với số lượng rất cao , dùng để bán đi khắp nơi cho thợ đá chế tạo những dụng cụ bằng đá . Thợ đá dùng công cụ đá sỏi cứng của Hoà Bình mà chế tác các dụng cụ nông nghiệp đá tảng mềm hơn đá sỏi . Khắp nơi trên địa cầu có rất nhiều học trò trẻ hơn Hoà Bình VN về chế tạo đá của các bậc thầy đá Hoà Bình Việt Nam . Điều nầy chứng minh rõ ràng là chỉ trong nền Văn Hoá Hoà bình tại Việt Nam mới có việc sản xuất công cụ đá cứng cho người thợ đá xử dụng như là dụng cụ chế tạo đá .

Vậy còn ai hoài nghi Hoà bình không phải là trung tâm đẻ ra nghiệp vụ đá cho nhiều quốc gia trên thế giới . Văn Hoá Hoà Bình là một nền Văn Hoá cách mạng ra đời trước Văn Hoá Bắc Sơn , và như trên đã nói , lẻ dĩ nhiên trước Đông Sơn rất lâu , ít nhất đến cả từ 6 000 đến 8 000 năm .

Và chính Hoà Bình là mẹ đẻ ra nền Văn Hoá nổi danh Bắc Sơn và sau nầy là Văn Hoá Đông Sơn rực rở huy hoàng . Văn Hoá Đông Sơn kéo dài cho tới khi Tàu qua chiếm nước ta lần đầu tiên thì ngừng hẳn . Điều nầy chứng minh rõ ràng Tàu đã đến cướp mất , phá hoại , cấm chỉ sự phát triển Văn Hoá của nước Việt cổ . Rõ ràng cũng nhờ cướp bóc lỏi cốt Văn Hoá Bách Việt cộng với sự giàu mạnh của cải và quân lực mà Văn Hoá Tàu tiến nhanh sau nầy .

Nền Văn Hoá Đông Sơn dưới thời Trưng Vương tuy âm thầm và ngắn ngủi nhưng tính ra đã được phục hưng có đến trên 100 năm , vì nó tiềm ẩn trong rừng sâu núi cao . Nền Văn Hoá nầy được gọi là nền Văn Hoá Đông Sơn phục hưng . Điều nầy cũng chứng minh trong mọi hoàn cảnh tiềm lực nghệ thuật của người Bách Việt mang một tính chất bất khuất , nhân gian và liên tục . Âu đây cũng là đức tính mà Trưng Vương đã truyền lại cho con cháu vùng Hà Tĩnh Nghệ An và sau nầy truyền đến Quảng Bình , Quảng Trị Thừa Thiên … vậy .

Về sau lúc có độc lập dài lâu , Văn Hoá thời Lý , Trần cũng đã dần dần chổi dậy , nhưng so với Văn Hoá Đông Sơn thì còn kém xa . Như thế thì thấy nạn xâm lăng tai hại cho Văn Hoá dân tộc biết bao !

Thật vậy , nhờ vào Khảo Cổ Học mà mọi bí ẩn của tiền sử đã được làm sáng tỏ , được sống lại . Và thế giới đã công nhậnViệt Nam , tiêu biểu là Văn Hoá Hoà Bình mà tên tuổi đã được thế giới hoá ( Encyclopédie d’Archéologie ) , đã được thế giới xác nhận là nơi có một nền nông nghiệp lúa nước và công nghiệp đá xưa nhất thế giới .

Có thể vì Văn Hoá Hoà Bình nằm vào thời điểm của trận Đại Hồng Thuỷ cách đây từ 17 000 năm đến 6 000 . Cuộc Đại Hồng Thuỷ nầy bao gồm cả Thế Giới , theo đó chắc nó ăn khớp và trùng hợp với cuộc Đại Hồng Thuỷ đã được diễn tả trong Cựu Kinh Ước của đạo Do Thái và Đạo Công Giáo . Vì vậy theo khoa học , rõ ràng trước và sau Đại Hồng Thuỷ loài người đã có mặt thậm lâu trên miền Đông Nam Á , mà quan trọng là tại Việt Nam .

Sau vụ Đại Hồng Thuỷ nầy , nơi trên Thế Giới nguy hại nhiều nhất , chính là Lục Địa Đông Nam Á . Vì một phần đất lớn của miền nầy đã sụp xuống biển , mở rộng thêm Thái Bình Dương . Xét theo thềm lục địa Đông Nam Á , các nhà Khảo Cổ nhận thấy Đại Hồng Thuỷ lên và lui rất chậm chạp , vì thế không xẩy ra tai nạn chết người tập thể .

Và như vậy số người đã sống trên bình nguyên Đông Nam Á cũ mà nay là biển đã di tản nguyên vẹn ra khắp các lục địa Đông Nam Á , và Úc Châu còn lại . Có lẻ đó là lý do chính của sự hỗn hợp nhiều chủng tộc trên miền Đông Nam Á .

Phần đất còn sót lại sau Đại Hồng Thuỷ trở nên quá ít đối với số dân sống bằng hái lượm trước kia . Do đó vấn đề cần thiết cho sự sinh sống của người Đông Nam Á mà trong đó người Bách Việt cổ là căn bản là đi tìm thức ăn . Người Bách Việt cổ đã di tản lên chốn Cao Nguyên tức là lục địa Bách Việt cổ mà nay là miền Nam Tàu và đồng bằng Bắc Việt và thẳng đến miền duyên hải Trung Việt ( vùng Quảng Trị Quảng Hoá tức là Thừa Thiên ) .

Người Việt cổ bắt buộc phải nghĩ đến cách làm tăng số lượng thực phẩm cần thiết để sinh sống mà trước đây họ chỉ cần tìm thấy dễ dàng trong thiên nhiên . Đây có lẽ là nguyên nhân phát triển nghề nông của các chủng người đã di tản đến Đông Nam Á mà chủ yếu là Việt Nam cổ .

Trên đây tôi đã dẫn những cứ liệu lịch sử về Văn Hoá Hoà Bình với mục đích xoá tan những luận điệu và nhận xét sai lạc của thực dân Tây , Tàu và cả người Việt theo tây mà điển hình là ông Tốt hay mất gốc mà điển hình là GS/BS Kim Ngọc ; đồng thời cũng để trình bày một cách tương đối sơ lược , một khía cạnh nào đó sự nghiệp lớn lao của tổ tiên chúng ta : Hiện tại Thế Giới đã công nhận rằng nước Việt Nam chúng ta đã có một nền nông nghiệp Lúa Nước và một nền công nghiệp Đá đã từng phát triển rực rỡ và xưa nhất Thế Giới .

Vậy mà bao nhiêu trăm năm nay đất nước chúng ta phải trải qua biết bao gian truân , đói khó , xâm lăng , huynh đệ tương tàn . Đến nỗi con cháu mờ mịt cả mắt mũi không còn thấy gì về tiền nhân , không còn biết gì đến công lao tổ tiên . Đồng thời con cháu cũng đã để ngoại bang hiểu lầm về sự nghiệp của các Vị . Vậy mà hiện tại người dân Việt phải đói khổ , phải nghèo nàn , phải đau thương , phải chậm tiến một cách man rợ . Thật là một điều vô cùng tủi nhục cho thân phận con người Việt Nam .

Thôi thì , tục ngữ ta vốn có câu Mấy ai giàu ba họ , mấy ai khó ba đời . Ngày xưa vinh thì ngày nay nhục vậy . Đối với Tàu hay ít lắm là với Nhật Bản , Đại Hàn , Thái Lan , Đài Loan … ngày xưa Việt Nam vượt trội lên , nhưng ngày nay , chúng ta trở thành thua kém xa vời thì nỗi nhục ấy quả nhiên là lớn lao .

Vậy , chúng ta chỉ còn cầu mong hết nhục ắt sẽ có ngày vinh quang . Chúng ta hãy đầy lòng tin tưởng cho ngày mai . Sau cơn sáng trời lại mưa , thì ắt sau cơn mưa trời lại sáng . Chúng ta phải tin tưởng như vậy . Chúng ta sẽ không tự mãn hả hê trước những thành tựu về học hành thi cử hay nghề nghiệp của con em trên đất khách . Vì đó chỉ là chuyện đương nhiên , mà trái lại chúng ta phải tự kiểm điểm những thiếu sót , những mất mát lớn lao cho thế hệ trẻ về phương diện Văn Hoá dân tộc .

Chúng ta phải có bổn phận vun trồng mầm móng Văn Hoá Bách Việt nước nhà lên lòng non dân tộc hải ngoại . Đó tất nhiên phải là điều khó khăn , chúng ta có thể bỏ công lao mồ hôi nước mắt , nghị lực thời gian làm việc hữu ích cho hậu duệ chúng ta ; hơn là ngày đêm ganh tương tị hiềm , kình địch , châm biến , chia rẽ , hận thù , đua nhau bịa đặt , bôi nhọ kẻ nào có gì hơn mình chút đỉnh . Những hành động đó chẳng những đã biến dần dân lưu vong thành một sắc dân mất gốc vô Văn Hoá , vô tổ tiên , mà còn biến một số người Việt đông đúc kém cỏi về kiến thức Văn Hoá Việt Nam lưu vong ( mặc dầu có khoa bản , bằng cấp ngoại quốc cao , hay tiền bạc nhiều ) thành man di đúng như tên gọi xưa kia của người Tàu .

Các dân tộc khác như Tàu , Nhật Bản , Do Thái … họ âm thầm đoàn kết với nhau bảo tồn và xây dựng lại nền Văn Hoá dân tộc , đi tiền phong khó khăn vất vả cho đến đạt mục đích thiết thực và họ đã thành công huy hoàng . Các dân tộc ấy là những tấm gương sáng giúp chúng ta trong nỗ lực làm phát triển văn minh tinh thần tức Văn Hoá truyền thống của Tổ Tiên Việt .

Niềm tin sẽ trở nên hiện thực hay không trong một ngày mai hậu gần gũi cũng do ở những hành động sâu ẩn trong mối ưu tư Văn Hoá dân tộc của mỗi một người trong chúng ta . Để cầu chúc cho bước tiến Văn Hoá ở tương lai gần của dân Việt , chúng tôi xin kính hiếu chút tình cảm lên trước bao công trình của tổ tiên chúng ta suốt từ thời tiền sử đến nay . Chúng tôi xin mượn câu nói của nhà văn hào Jean Valery : Hỡi tâm hồn cao cả , đã đến lúc mà Người cần được mặc chiếc áo xinh đẹp xứng đáng với cơ thể của người .

BS Nguyễn Thị Thanh – Montréal – C/N 2007/02

About Vinh2SG

Born 1938/11/05 in SaiGon Capital of South VietNam - Lycee Yersin DaLat then ENAC France - Captain on DC3/4-B727 with Air VietNam - Pilot on SE210 B7(3-4)7 with Corse Air Int'l - Living near Paris12 at Charenton Le Pont
This entry was posted in TàiLiệuLT and tagged , , , . Bookmark the permalink.

Leave a comment

This site uses Akismet to reduce spam. Learn how your comment data is processed.