1986/07/10
Hè 1986 , khi ấy còn là một thanh niên 25 tuổi , tràn đầy sức sống , tôi được lên danh sách định cư tại Hoa Kỳ theo diện có Cha đã từng tham gia quân đội Việt Nam Cộng Hoà thời trước tháng 04/1975 ; tiểu bang sẽ đến định cư là Oklahoma , nơi Cậu Tôi đang sinh sống .
Chuyến đi thật vất vả và nhiều kỷ niệm . Trước tiên , rời đảo Pulau Galang thuộc Indonesia bằng phà cao tốc từ một cầu tàu nằm ở bờ nước sâu gần trại tị nạn để qua đảo quốc Singapore . Đến Singapore , do có nhiều người bị nhặm mắt trong đợt dịch năm ấy , thế là hơn 400 người đi Mỹ định cư đợt đó phải lưu lại đảo quốc Singapore khoảng gần 1 tuần để trị bệnh ; các chuyến bay định cư tạm đình hoãn . Hằng ngày , mỗi người tị nạn được phát hai ổ bánh mì thịt , hai lon cô ca cô la để sống lây lất qua ngày . Mọi người trải chiếu ngủ chung trong phòng nhà giống như phòng làm việc .
Gần 1 tuần lễ ở Singapore , tôi đi chơi tá lả , đi khắp nơi , những chỗ không tốn tiền ở đảo quốc nhỏ bé này ; vì có rất ít đô la trong túi , cho nên chỉ đi ngắm cảnh mà thôi , không dám mua sắm gì cả . Thỉnh thoảng không cưỡng lại được các mùi đồ ăn quá hấp dẫn ở các khu chợ có các quán nhỏ bán đồ ăn bình dân , vài Anh Em rủ nhau vào rửa ruột bằng ít món thơm lừng cho đã thèm , cho bõ mấy ngày ròng rã trong trại chuyển tiếp ở Singapore , phải nhai bánh mì thịt và uống ực các ngụm cô ca đặng tống các mẫu bánh mì khô xuống bao tử . Khi dạo quanh khu thương xá , đi ngang qua những dãy tiệm buôn , chủ tiệm đứng ra chào mời , luôn miệng nói Sài Gòn , Sài Gòn , come in ; Chúng Tôi chỉ đưa mắt nhìn vào , chứ chẳng dám bước vô .
Dịch nhặm mắt rồi cũng qua , và Mỹ quyết định cho lên đường . Sáng ngày định cư , mọi người lục tục lên xe đưa đón để đến phi trường , lên máy bay từ Singapore , bay qua Kuala Lumpur , Mã lai á . Khi đã ngồi trong khoang máy bay , tiếp viên hàng không đến hỏi từng người , nếu muốn nghe nhạc thì sẽ phát headphone , muốn uống thì sẽ phát các loại xô đa , bia … Đa số lắc đầu nguầy nguậy vì không hiểu . Đến phiên tôi , vì đã từng là Teach Aide và từng là Instructor cho phòng Viewing-Listening Center ( Trung Tâm Thính Thị , nghe thật là kêu ) của khoá Mỹ , nên rất tự tin thực tập ngay tiếng Anh đã học được ; tôi hỏi kỹ lưỡng với cô tiếp viên về giá cả thì được biết headphone – FREE , xô đa các loại – FREE , và bia cũng FREE luôn , lạ lắm ! Thế là tôi đã xin một chiếc headphone và một lon bia để nhâm nhi ; tôi ngồi dựa đầu vào ghế , nhắm mắt lại nghe nhạc , nhấm nháp từng ngụm bia , thiệt là khoan khoái . Người chung quanh thấy vậy , một số người hỏi thăm tôi và được tôi giải thích ; thế là hầu hết mọi người trong máy bay đều giơ tay xin headphone và thức uống : đàn ông thì bia , phụ nữ trẻ con thì cô ca … nhốn nháo cả lên . Vui thật là vui !
Khoảng 45 phút sau máy bay hạ cánh xuống phi trường ở Kuala Lumpur , Mã Lai , đoàn người tị nạn lũ lượt vác ba lô trên vai , tay cầm túi xách có dòng chữ IOM ( International Organization for Migration ) ra khỏi máy bay . Khi đi ngang cửa máy bay , tôi trả lại headphone , thì tiếp viên nói , muốn giữ lại thì cứ việc giữ , còn không muốn thì để vào rổ( ? ? ? ) Những người đi trước đã để lại , tới phiên tôi , nghe nói thế , tôi liền cám ơn rồi quàng vào cổ cái headphone ; những người sau tôi thấy thế , họ bắt chước , hầu hết cất headphone vào túi IOM , hoặc quàng vào cổ giống tôi ; những người đi trước không biết đường mà lấy , rồi tiếc , lại chạy ngược trở lại cửa máy bay xin một cái , làm náo loạn cả lên ; ai cũng muốn lấy một chiếc ; mọi người cảm giác thật sung sướng vì sự hào phóng của xứ tư bản .
Từ Mã Lai , mọi người được hướng dẫn lên chuyến bay đường dài đi Mỹ , điểm đến là phi trường San Francisco , tiểu bang California ; theo lịch trình thì máy bay sẽ ghé ngang Tokyo để châm thêm xăng . Khi lên máy bay , tiếp viên cũng đem đến và phát cho mỗi người một cái headphone để coi phim , loại head phone xịn hơn , đẹp hơn , trông bắt mắt hơn , và kế tiếp là hỏi xem có uống gì không ; tôi cũng xin một lon bia , tiếp viên mở lon bia trao cho tôi , rồi tính tiền ; tôi ú ớ hỏi tại sao lạ thế , thì mới biết là chuyến đi đường xa này ( long flight ) chỉ FREE nước soda , còn các loại alcohol thì phải trả tiền ; tôi tiu nghỉu móc đô ra trả ; thế là hầu hết dân tị nạn trên chuyến bay đều xin uống xô đa . Kể từ đó , những người ngồi gần tôi , họ thường đưa mắt nhìn tôi , xem tôi làm gì , thì họ làm như vậy . Nghĩ lại , dzui thiệt dzui !
Khi máy bay sắp đến San Francisco , tiếp viên đến từng ghế thu hồi lại headphone làm nhiều người ngẩn to te , tưởng rằng kỳ này có cái headphone xịn đem về làm kỷ niệm ; ai dè , họ thu cái xịn lại . Tiếc thật ! Tui tiếc hùi hụi , tưởng kỳ này có được 2 cái headphones , một tàng tàng , một xịn , sẽ để dành khi qua Mỹ , có dịp sẽ gởi về Việt Nam làm quà ?
Ra khỏi hải quan San Francisco lúc trưa sau khi đã làm xong các thủ tục nhập cảnh , tôi và Lữ Kiến Phân ( 17 tuổi ) – thằng nhỏ vượt biên cùng ghe , và cùng barrack khi ở trại tị nạn – được một xe van đưa đến khách sạn ở San Francisco ( tôi không còn nhớ tên ) ; họ cho biết ngày hôm sau sẽ lên máy bay đi tiếp đến chỗ định cư , vì giờ này đã hết chuyến bay ; Lữ Kiến Phân sẽ đến Connecticut , còn tôi – Oklahoma .
Sau khi tắm xong , lần đầu trong đời được hưởng cái cảm giác khoan khoái của cuộc sống mà chưa bao giờ trải nghiệm qua , cảm giác sung sướng như đế vương ! Nghe tiếng gõ cửa , mở ra thì thấy bồi phòng đẩy xe đưa đến hai khay đồ ăn , mỗi khay có một con gà quay nhỏ , và các thứ đồ ăn kiểu Mỹ : rau xà lách , khoai tây , nước táo , cà phê , cam , bánh ngọt … chu choa ơi , quá nhiều ! Chẳng hiểu tại sao họ lại đem đến nhiều như thế , hai thằng làm sao cho hết . Hai Anh Em bàn nhau chỉ dùng một phần , để dành một phần tối ăn . Sau khi chén xong , để gọn khay đã ăn xong một bên , còn khay chưa đụng đến thì để qua một bên kia , cẩn thận đẩy vào một góc bàn , đóng cửa phòng , đoạn cả hai lang thang xuống phố xem có gì lạ không . Chiều tối trở về phòng định ăn tối phần ăn còn lại trước khi đi ngủ , mở của phòng ra thì cả hai khay đồ ăn , trong đó có một khay còn nguyên đã biến mất . Thế là đêm hôm đó nhịn ( cũng không đói lắm ) . Hai thằng xúc miệng , uống nước ở vòi ( cho khỏi tốn tiền ) , nằm nói chuyện tương lai cho đến khi không thể mở mắt để nói , mới đi ngủ .
Sáng hôm sau , lại có người gõ cửa phòng đưa 2 khay đồ ăn sáng ; dùng điểm tâm xong , Chúng Tôi được tập trung lại , và họ đưa ra phi trường . Vài người cùng với tôi lên chuyến bay đi Denver , còn Lữ Kiến Phân thì lên chuyến bay đi Chicago , rồi từ Chicago , nó sẽ lấy chuyến bay kế tiếp đi Connecticut . Tôi và Phân chia tay nhau trong cảnh lưu luyến bịn rịn ; hai Anh Em bồi hồi nói lời từ biệt nhau tại phi trường San Francisco , chúc nhau những lời chúc thật hoa mỹ và tốt đẹp ; trong lòng tự hỏi chẳng biết đến bao giờ mới có dịp gặp lại nhau .
Khi đến Denver , ra khỏi máy bay , tôi và nhóm người cùng chuyến lại lục tục ra khỏi máy bay để lấy chuyến bay kế tiếp đi đến chặng cuối : tôi cần lấy chuyến bay kế tiếp đi Wichita City ( tiểu bang Kansas ) , rồi cậu của tôi sẽ từ Oklahoma city , tiểu bang Oklahoma , lái xe đến Wichita để đón tôi ( Oklahoma cách Kansas khoảng 2 tiếng đi xe ) .
Ngồi ở phi trường Denver , tôi chợt nghĩ vẩn vơ , giờ này có lẽ thằng Phân đã ngồi trên máy bay đi Connecticut ( ? ) Chắc nó cũng có tâm trạng như tôi ( ? ) .
Trong khi ngồi chờ tại phi trường Denver để lên chuyến bay đi Wichita , có một anh bạn quen biết trên đảo , tên Diệp Bành Khương , từng là học viên trong lớp thính thị do tôi làm instructor cũng xà lại tán dóc với tôi , vì anh ấy cũng sẽ đi cùng chuyến bay đến Wichita ; ngồi tán dóc với nhau một chốc , anh ấy cần đi toilet cho nên nhờ tôi giữ dùm hành lý ; với tính cẩn thận , tôi dặn dò anh thật kỹ càng , là phải nhớ số cổng , số EXIT number để khỏi lạc ; tôi dặn , anh nhớ nhé , toilette ở tuốt đàng kia , góc đó đó ; khi trở lại , anh nhớ phải đến cái cửa số 501 nghen ( Exit 501 ) .
Đến gần giờ lên máy bay đi Wichita , không thấy anh Khương trở lại , tôi quýnh quáng vừa đeo ba lô của tôi , vừa xách ba lô của anh Khương , tay kia xách 2 cái túi ny long IOM , lăng xăng vội vã đi loanh quanh tìm anh Khương ; lúc đó tôi mới phát hiện , cái Exit 501 hồi nãy làm điểm hẹn với anh Khương giờ đã biến mất , mà là Exit số khác . Chú ý thật kỹ , thì mới biết cái cổng Exit 501 mà tôi nhìn , đó là cái bảng chỉ lối Exit , rồi phía dưới là cái đồng hồ digital , lúc nãy nó chỉ 5 01 , giờ nó chỉ giờ khác rồi . Tội nghiệp anh Khương , anh đã đi lạc , tìm không ra chỗ hẹn . Đến giờ lên máy bay , thiếu anh Khương , nhân viên IOM bèn dẫn tôi vào văn phòng và mở mi cô cho tôi nói bằng tiếng Việt để gọi anh Khương lên máy bay . Nghĩ lại chuyện này , giờ này tôi vẫn buồn cười , và thấy sao lúc đó ngố quá .
Trên máy bay đi Wichita , anh Khương ngồi một chỗ , tôi ngồi một chỗ , kế bên hai vợ chồng to con người Mỹ ; tôi thì nhỏ thó , ngồi nép vào cửa sổ , nhìn xuống sân bay , thích lắm . Hai ông bà người Mỹ nhìn tôi một cách tò mò , vì khi nãy họ thấy tôi vác cái ba lô nhỏ trên vai , còn trên tay xách cái túi ny lông có chữ IOM to tướng lúc lên máy bay . Khi đã yên vị , họ đưa mắt nhìn tôi vẻ như gợi chuyện … Tôi liền nhoẻn miệng cười chào … và thế là câu chuyện bắt đầu ; tôi kể cho họ về hành trình vượt biển bằng ghe từ Việt Nam , rồi ở trại tị nạn như thế nào , rồi hành trình qua Mỹ … cả tuần nay như thế nào ; cả hai vợ chồng chăm chú nghe , chẳng biết họ có hiểu hết những gì tôi nói không ( ? ) ; tôi nghĩ , dù không hiểu toàn bộ , nhưng có lẽ Họ cũng nắm được những gì tôi nói , vì tôi nghe Họ cứ ừ hử ừ hử và thấy Họ gục gặc cái đầu liên tục ? Một lúc , ông chồng lịch sự nói với tôi , rằng You don’t mind if I smoke ?
Tôi hiểu ngay Ổng hỏi :
– Tôi hút thuốc sẽ không làm phiền cậu chứ ?
Tôi trả lời , Dạ ( ý muốn nói , dạ , chẳng phiền chi ) . Bỗng nhiên tôi thấy Ông khựng lại , không nói gì nữa .
Nguyên văn tiếng Anh là :
– You don’t mind if I smoke ?
– Yes .
Tôi đang thèm rít vài hơi thuốc , cảm thấy mừng vì biết ông cũng đang muốn hút thuốc ; tôi chờ đợi ông hút , thì tôi sẽ xin tí lửa mồi thuốc hút theo . Đợi vài phút , không thấy ông làm gì cả , tôi liền moi gói thuốc ra mời ông một điều và đánh bạo hỏi .
– Do you have lights that I can borrow ?
Tới lúc đó , ông nhìn tôi với ánh mắt ngạc nhiên , và nói , You told me you’d mind if I smoke . Khi ấy tôi giật mình nghĩ , à thì ra thế , có sự hiểu lầm ở đây rồi . Lẽ ra tôi nên trả lời rõ ràng , No . I don’t mind if you smoke .
Máy bay đáp xuống đường băng phi trường Wichita lúc xế chiều , ánh nắng mặt trời chiếu chói chang xiên ngang ô cửa sổ máy bay . Chiếc phản lực lăn bánh chậm chậm , thật chậm , và dừng lại hẳn . Ông Mỹ ngồi kế tôi nói , Welcome to Wichita ! This is your new homeland . Tôi lí nhí nói , Thank you , rồi bắt chước mọi người đứng lên mở cốp lấy ba lô để rời máy bay .
Hành khách lũ lượt ra khỏi máy bay bằng cầu thang đặt ngay cửa để bước xuống sân bay . Ra khỏi máy bay , bước xuống đường băng lúc hơn 8 giờ tối , trời giữa tháng 7 vẫn còn sáng rực , mặt trời ngả về phía Tây , nhưng nắng chiều vẫn còn gay gắt , sức nóng hừng hực từ mặt nhựa đường băng bốc lên , không khi oi bức từ trên không chụp xuống , lòng thật ngỡ ngàng , hoang mang về nơi định cư mới . Tự dưng khi ấy nhớ đến bài thơ Qua Đèo Ngang của Bà Huyện Thanh Quan , làm tôi nảy ra trong đầu 4 câu tương tự , mà sau này tôi mới biết loại thơ 4 câu như thế là loại thơ thất ngôn tứ tuyệt , bài thơ ngẫu hững mà tôi vẫn còn nhớ đến bây giờ .
* * *
Bước xuống sân bay nắng xế tà ;
Hàng người ngóng đợi tít xa xa .
Trông như có bóng người Châu Á ;
Thoáng nghĩ trong đây có cậu nhà .
* * *
Tóm lại , hành trình định cư của tôi cũng khá dài và nhiêu khê :
– từ đảo Galang đi Singapore , July 10 , 1986 ;
– từ Singapore – Kuala Lumpur , July 15 , 1986 ;
– từ Kuala Lumpur – Nhật , July 15 , 1986 ;
– từ Nhật – San Francisco , July 15 , 1986 ;
– từ San Francisco – Denver , July 16 , 1986 ;
– từ Denver – Wichita , July 16 , 1986 ;
– từ Wichita – Oklahoma , July 17 , 1986 .